SKKN Nâng cao chất lượng môn Tiếng Anh cho học sinh tiểu học thông qua việc dạy từ vựng tại Trường Tiểu học Nghĩa Hồng
Muốn học sinh tiểu học học tốt môn Tiếng Anh thì mỗi người giáo viên dạy môn Tiếng Anh không phải chỉ truyền đạt, giảng giải theo các tài liệu sẵn có trong sách giáo khoa, trong sách hướng dẫn và sách thiết kế bài giảng một cách rập khuôn, máy móc làm cho học sinh học tập một cách thụ động. Nếu chỉ dạy học như vậy thì việc học tập của học sinh sẽ diễn ra thật đơn điệu, tẻ nhạt và kết quả học tập sẽ không có hiệu quả. Nó là một trong những nguyên nhân gây ra cản trở việc đào tạo các em thành những con người năng động, tự tin, sáng tạo sẵn sàng thích ứng với những đổi mới diễn ra hàng ngày.
Trong những năm gần đây, yêu cầu của giáo dục hiện nay đòi hỏi phải đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các môn học và các cấp học, nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. Chính vì vậy, môn Tiếng Anh nói chung và mônTiếng Anh ở bậc tiểu học nói riêng cũng cần phải có những đổi mới mạnh mẽ hơn nữa, phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh, lấy học sinh làm trung tâm. Vì vậy, người giáo viên phải gây hứng thú học tập cho các em bằng cách lôi cuốn các em tham gia vào các hoạt động học tập. Các hoạt động có nội dung phong phú, sử dụng ngôn ngữ thật lý thú và bổ ích phù hợp với nhận thức của các em. Thông qua các hoạt động các em sẽ lĩnh hội những kiến thức và khả năng vận dụng ngôn ngữ trong giao tiếp một cách dễ dàng, củng cố, khắc sâu kiến thức một cách vững chắc, tạo cho các em niềm say mê, hứng thú trong học tập, trong việc làm. Khi chúng ta đưa ra được nhiều hình thức hoạt động trong giờ học Tiếng Anh một cách thường xuyên, khoa học thì chắc chắn chất lượng dạy học môn Tiếng Anh sẽ ngày càng nâng cao. Chính vì những lý do trên mà tôi đã chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm “Nâng cao chất lượng môn Tiếng Anh cho học sinh tiểu học thông qua việc dạy từ vựng”. Đây là đề tài tôi đang thể hiện và nghiên cứu.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Nâng cao chất lượng môn Tiếng Anh cho học sinh tiểu học thông qua việc dạy từ vựng tại Trường Tiểu học Nghĩa Hồng

hải có kế hoạch chuẩn bị chu đáo, cặn kẽ và đảm bảo các yêu cầu sau : + Hoạt động mang ý nghĩa giáo dục. + Hoạt động phải nhằm mục đích giới thiệu, củng cố, khắc sâu nội dung bài học. + Hoạt động phải phù hợp với tâm lý, trình độ học sinh, phù hợp với khả năng người hướng dẫn và điều kiện cở sở vật chất của trường. + Hình thức các hoạt động phải phong phú, đa dạng và phải được chuẩn bị chu đáo, kỹ càng. + Hoạt động phải gây được hứng thú và niềm say mê học tập đối với học sinh. *Lựa chọn từ để dạy: Tiếng Anh là một môn học có tầm quan trọng, nó là công cụ để giao tiếp với các nước trên thế giới. Muốn giao tiếp tốt chúng ta phải có vốn từ phong phú. Ở môi trường tiểu học hiện nay, khi nói đến ngữ liệu mới là chủ yếu nói đến ngữ pháp và từ vựng, từ vựng và ngữ pháp luôn có mối quan hệ khăng khít với nhau, luôn được dạy phối hợp để làm rõ nghĩa của nhau. Tuy nhiên việc dạy và giới thiệu từ vựng là vấn đề cụ thể. Thông thường trong một bài học luôn xuất hiện những từ mới, xong không phải từ mới nào cũng cần đưa vào để dạy. Để chọn từ cần dạy, giáo viên cần xem xét những vấn đề: - Từ chủ động (active vocabulary) - Từ bị động (passive vocabulary) Chúng ta đều biết cách dạy hai loại từ này khác nhau. Từ chủ động có liên quan đến bốn kỹ năng (nghe – nói – đọc – viết). Đối với loại từ này giáo viên cần đầu tư thời gian để giới thiệu và cho học sinh luyện tập nhiều hơn. Với từ bị động giáo viên chỉ cần dừng ở mức nhận biết, không cần đầu tư thời gian vào các hoạt động ứng dụng. Giáo viên cần biết lựa chọn và quyết định xem sẽ dạy từ nào như một từ chủ động và từ nào như một từ bị động. - Khi dạy từ mới cần làm rõ ba yếu tố cơ bản của ngôn ngữ là: + Form (dạng từ). + Meaning (ý nghĩa). + Use (cách sử dụng). Đối với từ chủ động ta chỉ cho học sinh biết chữ viết và định nghĩa như từ điển thì chưa đủ, để cho học sinh biết cách dùng chúng trong giao tiếp, giáo viên cần cho học sinh biết cách phát âm, không chỉ từ riêng lẻ, mà còn biết phát âm đúng những từ đó trong chuỗi lời nói, đặc biệt là biết nghĩa của từ. - Số lượng từ cần dạy trong bài tuỳ thuộc vào nội dung bài và trình độ của học sinh. Không bao giờ dạy tất cả các từ mới, vì sẽ không có đủ thời gian thực hiện các hoạt động khác. Tuy nhiên, trong một tiết học chỉ nên dạy tối đa là 6 từ. - Trong khi lựa chọn từ để dạy nên xem xét đến hai điều kiện sau: + Từ đó có cần thiết cho việc hiểu văn bản không ? + Từ đó có khó so với trình độ học sinh không ? - Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản và phù hợp với trình độ của học sinh, thì nó thuộc nhóm từ tích cực, do đó cần phải dạy cho học sinh. - Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản nhưng khó so với trình độ của học sinh, thì nó không thuộc nhóm từ tích cực, do đó nên giải thích rồi cho học sinh hiểu nghĩa từ đó ngay. - Nếu từ đó không cần thiết cho việc hiểu văn bản và cũng không khó lắm thì nên khuyến khích học sinh đoán. - Giáo viên có thể dùng một số thủ thuật gợi mở giới thiệu từ mới như: 1. Visual (nhìn): cho học sinh nhìn tranh ảnh, vẽ phác họa cho các em nhìn, giúp giáo viên ngữ nghĩa hoá từ một cách nhanh chóng. Ví dụ: a car ví dụ: a flower 2. Mine (điệu bộ): Thể hiện qua nét mặt, điệu bộ. Thể hiện qua nét mặt Thể hiện qua điệu bộ Ví dụ: Fine – nét mặt vui vẻ thể hiện sự khỏe khoắn, vui vẻ. Not fine - nét mặt hơi buồn, giọng nói hơi trầm –thể hiện mình không được khỏe, không được vui lắm. Hello – cười tươi- thể hiện được gặp gỡ. Goodbye – vẻ mặt hơi tiếc nuối vì phải chia tay. Like/ Love – vẻ mặt tươi vui thể hiện sự yêu thích của mình...... Ví dụ: Come in - điệu bộ đi vào. Go out - điệu bộ đi ra. Stand up – đứng lên Sit down – ngồi xuống. Play football – dùng chân làm động tác đá bóng. Spell – đánh vần: A- B_ C.... Read / Reading – cầm quyển sách lên đọc. Clean / Cleaning – lau bàn, lau bảng........ 3. Realia (vật thật): Dùng những dụng cụ trực quan thực tế có được. Ví dụ: Với danh từ Nam and Hoa- chỉ vào hai học sinh để giới thiệu tên của các bạn / chỉ vào giáo viên và nói tên.... ball – đưa ra 1 quả bóng/ balls- đưa ra 2 quả bóng để giới thiệu nó là 1quả bóng/ 2 quả bóng – cách dùng số ít và số nhiều. Family/ father/ school......- đưa bức ảnh/ tranh vẽ minh họa.... Ví dụ với tính từ Colour / white/ red......– đưa ra một số thẻ màu tương ứng. Big – chỉ vào bạn học sinh to lớn hơn hoặc vật to hơn.... Small – chỉ vào học sinh nhỏ bé hơn... 4. Situation / explanation (tình huống/giải thích): Ví dụ: Goodmorning Giáo viên đưa ra cho học sinh tình huống: “Khi bạn đến trường bạn gặp thầy, cô giáo hoặc các bạn thì đầu tiên bạn làm gì?”- từ đó học sinh sẽ đoán là chào thầy cô giáo và các ban. Vậy giáo viên sẽ giới thiệu được từ Good morning T. asks, “What am I? Tell me the word in Vietnamese.” 5. Example(ví dụ): Ví dụ: furniture Teacher lists examples of furniture: “tables, chairs, beds – these are all... funiture... Give me another example of... furniture...” Ví dụ: (to) complain Teacher says: “This room is too noisy and too small. It’s no good (etc.)” Teacher asks: “What am I doing?” 6. Synonyon \ antonyon (đồng nghĩa \ trái nghĩa): Giáo viên dùng những từ đã học rồi để giảng từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa. Ví dụ: intelligent Teacher asks: “What’s another word for clever?” Ví dụ: stuppid Teacher asks: “What’s the opposite of clever?” 7. Translation (dịch): Giáo viên dùng những từ tương đương trong tiếng Việt để giảng nghĩa từ trong tiếng Anh. Giáo viên chỉ sử dụng thủ thuật này khi không còn cách nào khác, thủ thuật này thường được dùng để dạy từ trừu tượng, hoặc để giải quyết một số lượng từ nhiều nhưng thời gian không cho phép, Giáo viên gợi ý học sinh tự dịch từ đó. Ví dụ: (to) have Teacher asks: “How do you say “ có ” in English?”......... 8. T’s eliciting questions (câu hỏi gợi ý) : Để giới thiệu từ mới, giáo viên dạy cho học sinh theo bốn kỹ năng nghe – nói – đọc – viết. + Nghe: Giáo viên đọc mẫu, học sinh lắng nghe. + Nói: Giáo viên đọc từ, học sinh đọc lại. + Đọc: Giáo viên viết từ lên bảng, học sinh đọc từ bằng mắt, bằng miệng. + Viết: Học sinh viết từ vào tập. Trong khi dạy từ mới cần ghi nhớ các điểm sau: Nên giới thiệu từ trong mẫu câu, ở những tình huống giao tiếp khác nhau, giáo viên kết hợp việc làm đó bằng cách thiết lập được sự quan hệ giữa từ cũ và từ mới, từ vựng phải được củng cố liên tục. Giáo viên thường xuyên kiểm tra từ vựng vào đầu giờ bằng cách cho các em viết từ vào bảng con và giơ lên, với cách này giáo viên có thể quan sát được toàn bộ học sinh ở lớp, bắt buộc các em phải học bài và nên nhớ cho học sinh vận dụng từ vào trong mẫu câu, với những tình huống thực tế giúp các em nhớ từ lâu hơn, giao tiếp tốt và mang lại hiệu quả cao. Để học sinh tiếp thu bài tốt đòi hỏi khi dạy từ mới, giáo viên cần phải lựa chọn các phương pháp cho phù hợp, chúng ta cần chọn cách nào ngắn nhất, nhanh nhất, mang lại hiệu quả cao nhất, là sau khi học xong từ vựng thì các em đọc được, viết được và biết cách đưa vào các tình huống thực tế. 3. Biện pháp tổ chức thực hiện: 3.1. Biện pháp 1. Các bước tiến hành giới thiệu từ mới: * Bước giới thiệu bài, giới thiệu chủ đề: đây là bước khá quan trọng trong việc dạy từ vựng. Bước này sẽ quyết định sự thành công của tiết học, nó sẽ gợi mở cho học sinh liên tưởng đến những từ sắp học qua chủ điểm vừa mới được giới thiệu. Điều quan trọng nhất trong giới thiệu từ mới là phải thực hiện theo trình tự: nghe, nói, đọc, viết. Đừng bao giờ bắt đầu từ hoạt động nào khác “nghe”. Hãy nhớ lại quá trình học tiếng mẹ đẻ của chúng ta, bao giờ cũng bắt đầu bằng nghe, bắt chước phát âm rồi mới tới những hoạt động khác. Hãy giúp cho học sinh của bạn có một thói quen học từ mới một cách tốt nhất: - Bước 1: “nghe”, bạn cho học sinh nghe từ mới bằng cách đọc mẫu hoặc mở băng đĩa cho học sinh nghe. - Bước 2: “nói”, sau khi học sinh đã nghe được ba lần bạn mới yêu cầu học sinh nhắc lại. Khi cho học sinh nhắc lại, bạn cần chú ý cho cả lớp nhắc lại trước, sau đó mới gọi cá nhân. - Bước 3: “đọc”, bạn viết từ đó lên bảng và cho học sinh nhìn vào đó để đọc. Cho học sinh đọc cả lớp, rồi đọc cá nhân và sửa lỗi cho học sinh tới một chừng mực mà bạn cho là đạt yêu cầu. - Bước 4: “viết”, sau khi học sinh đã đọc từ đó một cách chính xác rồi bạn mới yêu cầu học sinh viết từ đó vào vở. - Bước 5: bạn hỏi xem có học sinh nào biết nghĩa của từ đó không và yêu cầu một học sinh lên bảng viết nghĩa của từ đó bằng tiếng Việt. - Bước 6: đánh trọng âm từ: phát âm lại từ và yêu cầu học sinh nhận diện âm tiết có trọng âm và đánh dấu. - Bước 7: cho câu mẫu và yêu cầu học sinh xác định từ loại của từ mới học. 2.2. Biện pháp 2. Các thủ thuật kiểm tra và củng cố từ mới: Chúng ta biết rằng chỉ giới thiệu từ mới thôi không đủ, mà chúng ta còn phải thực hiện các bước kiểm tra và củng cố. Các thủ thuật kiểm tra và củng cố sẽ khuyến khích học sinh học tập tích cực và hiệu quả hơn. Trong hoạt động này, chúng ta có thể sử dụng để kiểm tra từ mới. Sau đây là một số thủ thuật kiểm tra và củng cố từ mới: - Rub out and Remember - Slap the board - What and where - Matching - Bingo Lisle order vocabulary Lucky number Hangman Bees find words Pastimes Kim’s game Simon say I spy with my little eye... ............................. 3.3. Biện pháp 3. Hướng dẫn học sinh học từ vựng ở nhà: Để phát huy tốt tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong học tập, thì chúng ta cần tổ chức quá trình dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động của người học, trong quá trình dạy và học, giáo viên chỉ là người truyền tải kiến thức đến học sinh, học sinh muốn lĩnh hội tốt những kiến thức đó, thì các em phải tự học bằng chính các hoạt động của mình. Hơn nữa thời gian học ở trường rất ít, cho nên đa phần thời gian còn lại ở gia đình các em phải tổ chức cho được hoạt động học tập của mình. Làm được điều đó, thì chắc chắn hoạt động dạy và học sẽ ngày càng hoàn thiện hơn. Cho nên ngay từ đầu từ năm học, giáo viên cần hướng dẫn học sinh xây dựng hoạt động học tập ở nhà. a/. Chuẩn bị từ vựng. b/. Học thuộc lòng từ vựng. 4. Kết quả Sau một thời gian dạy thực nghiệm “Nâng cao chất lượng môn Tiếng Anh cho học sinh tiểu học thông qua việc dạy từ vựng” Tôi thấy được chất lượng và hiệu quả của giờ dạy môn Tiếng Anh của mình tăng lên rõ rệt. Học sinh được chuyển sang thực hành rất sinh động, giờ học sôi nổi, không khí học tập không còn buồn tẻ như trước kia. Học sinh hào hứng trong học tập và kiến thức được khắc sâu hơn. Kết quả dạy thực nghiệm còn được đánh giá qua thăm dò hứng thú học tập của học sinh. Kết quả sau khi áp dụng lồng ghép các trò chơi vào tiết dạy môn Tiếng Anh tính đến tháng 3 năm 2020. (Phụ lục 3) Sau khi lựa chọn để vận dụng một số hoạt động đã nêu trên vào tiết học. Cuối tiết học tôi thấy rằng nhiều học sinh không những nắm được kiến thức bài học mà còn nhớ được kiến thức của bài học đó. Các em rèn được khả năng nhanh nhẹn, khéo léo và tạo cho các em mạnh dạn, tự tin hơn. Điều đáng mừng là nhiều em học rất hào hứng, chờ đợi tiết học. Tạo cho các em lòng yêu thích bộ môn Tiếng Anh. PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận Trên đây là nội dung và các biện pháp tổ chức dạy từ vựng trong mỗi tiết học. Mỗi loại hình hoạt động có nhiều tác dụng trong các giờ học của học sinh tiểu học, tạo ra không khí vui tươi, hồn nhiên, sinh động trong giờ học. Nó còn kích thích được trí tưởng tượng, tò mò, ham hiểu biết ở học sinh. Tổ chức tốt các hoạt động học tập không chỉ tạo các em hứng thú hơn trong học tập mà còn giúp các em tự tin hơn. Có cơ hội tự khẳng định mình và đánh giá nhau trong học tập Việc tổ chức các hoạt động phù hợp trong các giờ học Tiếng Anh là rất cần thiết. Xong không nên quá lạm dụng nhiều phương pháptrong một giờ học, mỗi giờ học ta chỉ nên tổ chức cho các em từ 2 đến 3 hoạt động trong khoảng thời gian phù hợp. Do vậy, người giáo viên cần có kỹ năng tổ chức, hướng dẫn các em hoạt động thật hợp lý và đồng bộ, phát huy được tối đa vai trò của học sinh. Khi tổ chức các hoạt động học tập nói chung và dạy từ vựng Tiếng Anh ở bậc tiểu học nói riêng, chúng ta cần phải dựa vào nội dung bài học, vào điều kiện cơ sở vật chất của trường mà lựa chọn hoặc thiết kế hoạt động cho phù hợp. Vậy để tổ chức được một số hoạt động có hiệu quả đòi hỏi mỗi người giáo viên phải có kế hoạch, chuẩn bị thật chu đáo cho mỗi tiết học. Căn cứ vào kết quả bài kiểm tra trắc nghiệm trên tôi thấy được những khó khăn, hạn chế trong việc dạy bài học. Do vậy, tôi đã trao đổi với các bạn đồng nghiệp và tìm tòi nghiên cứu tìm những phương pháp mới để dạy cho học sinh tiểu học và đã đề ra 3 mục tiêu cơ bản là: Thứ nhất: Giúp học sinh hiểu và ghi nhớ kiến thức một cách dễ hiểu và nhanh nhất. Thứ hai: Tạo hứng thú cho học sinh hứng thú học tập và tập trung thật cao độ trong giờ học. Thứ ba: Học sinh học một cách chủ động, sáng tạo và có cơ hội thực hành nhiều, thường xuyên. Khi dạy từ vựng tiếng Anh cho học sinh tiểu học là dạy cho các em bước đầu làm quen với việc sử dụng một ngôn ngữ mới. Vì vậy, ta phải tạo cho các em có được niềm say mê và hứng thú trong học tập. Để làm được điều này thì cần phải lựa chọn các nội dung sao cho phù hợp với lứa tuổi nhỏ, tạo cho các em một không khí học tập thật sôi nổi, vui vẻ và hào hứng chủ động sáng tạo. Qua đó, các em có thể học mà chơi, chơi mà học. Chính vì thế, chúng ta phải vận dụng lồng ghép các hoạt động vào các tiết dạy và trong quá trình giảng dạy, tuỳ từng nội dung bài học phải lựa chọn hoạt động cho thật phù hợp. Ngoài việc kết hợp tổ chức các hoạt động đan xen trong các tiết học thì việc đổi mới phương pháp dạy học và việc khuyến khích, động viên, khen ngợi học sinh là việc làm rất cần thiết để thúc đẩy việc tự giác học tập cho học sinh. Người giáo viên phải luôn tạo ra môi trường vui vẻ và phát huy được tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong các giờ học. 2. Khuyến nghị. Trên đây là một số ý kiến nhỏ của tôi về việc nâng cao chất lượng môn Tiếng Anh cho học sinh tiểu học thông qua việc dạy từ vựng trong giờ học Tiếng Anh ở các khối lớp năm học 2019-2020 và đạt kết quả chuyển biến rõ rệt. Đó cũng là ý kiến chủ quan của cá nhân tôi nên không tránh khỏi những hạn chế. Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến, trao đổi từ đồng chí, đồng nghiệp và các chuyên viên viên để bản thân tôi ngày một tiến bộ hơn, hoàn thiện hơn và để đề tài đạt hiệu quả cao và được phổ biến rộng rãi góp phần vào công cuộc giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ, để tiếng nước ngoài đến gần với các em, thâm nhập vào cuộc sống và trở thành công cụ giao tiếp hữu hiệu và đắc lực. Qua đó, tích lũy được thêm nhiều kinh nghiệm giảng dạy và nghệ thuật dạy học đạt kết quả cao nhất đáp ứng được yêu cầu giáo dục trong giai đoạn hiện nay. Đề tài này có thể áp dụng có hiệu quả và hết sức hữu hiệu với tất cả các học sinh có học Tiếng Anh trong các trường tiểu học và có thể nhân rộng ra tất cả các khối lớp học Tiếng Anh ở bậc học khác. Xin chân thành cảm ơn sự đóng góp ý kiến của hội đồng khoa học và tất cả quý thầy cô giáo. Nghĩa Hồng, ngày.......tháng.......năm 202 NGƯỜI VIẾT SKKN Phạm Thị Kiều Oanh
File đính kèm:
skkn_nang_cao_chat_luong_mon_tieng_anh_cho_hoc_sinh_tieu_hoc.docx