SKKN Một số biện pháp giảng dạy từ vựng Tiếng Anh hiệu quả cho học sinh Tiểu học
Hiện nay, tiếng Anh được sử dụng ở hầu hết mọi lĩnh vực trong cuộc sống và nó được coi là ngôn ngữ quốc tế trên thế giới, được coi là “chìa khóa vàng” cho sự hợp tác và cùng phát triển giữa các quốc gia trên thế giới. Vì thế, việc học và sử dụng tiếng Anh ngày càng tăng. Ở Việt Nam, tiếng Anh ngày càng chiếm vị trí quan trọng và đang là môn ngoại ngữ được sử dụng phổ biến nhất. Ngày 30/9/2008 Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 1400/QĐ-TTg, phê duyệt Đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân” (gọi tắt là đề án ngoại ngữ 2020). Mục tiêu chung của đề án là “Thực hiện đổi mới toàn diện việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục nhằm đảm bảo đến năm 2015 đạt được bước tiến rõ rệt về trình độ, năng lực sử dụng ngoại ngữ của nguồn nhân lực…..”. Có thể thấy rằng, để Việt Nam có thể đi tắt, đón đầu, để con người Việt Nam có thể vươn lên tầm cao trí tuệ thế giới, thì hội nhậpTiếng Anh đóng một vai trò không nhỏ.
Trong quá trình học ngoại ngữ, từ vựng có thể xem là phần quan trọng nhất vì nó là phương tiện dùng để diễn đạt ý tưởng đồng thời đó cũng là cầu nối giữa các kĩ năng nghe, nói, đọc và viết. Tuy nhiên, việc dạy từ vựng cho trẻ đang ở ngưỡng bắt đầu học ngoại ngữ đòi hỏi sự đầu tư ở mỗi bài học, mỗi tiết học. Dạy tiếng Anh nói chung và dạy từ vựng nói riêng cho trẻ đòi hỏi ở người giáo viên không chỉ khả năng ngôn ngữ mà còn là khả năng khuyến khích, khơi dậy được sự hứng thú, say mê của học sinh. Để làm được điều đó, giáo viên buộc phải tạo ra sự đa dạng trong các hoạt động trong giờ học. Đó là lí do tại sao giáo viên cần lựa chọn và phối hợp các phương pháp và kỹ thuật dạy từ vựng một cách linh hoạt và uyển chuyển để duy trì khả năng tập trung ở học sinh tiểu học. Tuy nhiên, qua thực tế giảng dạy tại trường Tiểu học, tôi nhận thấy việc giảng dạy từ vựng chưa mang lại hiệu quả cao trong giờ học Tiếng Anh. Vậy đâu là nguyên nhân của hiện tượng trên?
Qua những tìm hiểu về tâm lý học lứa tuổi và giáo học pháp đối với học sinh bậc tiểu học, tôi nhận ra rằng một phần nguyên nhân ở việc giáo viên vẫn còn chưa nắm vững được nội dung và đặc điểm của các phương pháp dạy từ vựng, từ đó dẫn đến việc chưa thực sự thuần thục khi sử dụng chúng trong các bài học cụ thể. Hơn nữa, một đặc điểm dễ nhận thấy của học sinh tiểu học đó là nhút nhát, thụ động và thiếu sự tích cực trong giờ học. Vậy nên để học sinh yêu thích, say mê với môn học và thay đổi được thực trạng trên, tôi đã mạnh dạn đi đến quyêt định lựa chọn đề tài nghiên cứu “Một số biện pháp giảng dạy từ vựng Tiếng Anh hiệu quả cho học sinh Tiểu học” khi học sinh đang được lần đầu tiếp cận với bộ giáo trình mới, tiên tiến theo hướng giao tiếp (communicative approach).
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số biện pháp giảng dạy từ vựng Tiếng Anh hiệu quả cho học sinh Tiểu học

nhấn mạnh vào việc hình thành và phát triển 4 kỹ năng ngôn ngữ: nghe, nói, đọc, viết trong quá trình dạy học, trong đó kiến thức ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp) không được quan tâm một cách thích đáng. Kết quả là một số người học cảm thấy khó có thể “giao tiếp” vì họ làm sao có thể nghe, nói, đọc, viết được một khi không nắm chắc hệ thống qui tắc ngôn ngữ. Mỗi phương pháp ra đời sau đều được coi như một cố gắng kế thừa những thành tựu và khắc phục nhược điểm của phương pháp ra đời trước nó. Vì vậy là giáo viên trực tiếp giảng dạy cần lựa chọn và vận dụng các phương pháp và kỹ thuật dạy từ cho phù hợp với từng đối tượng học sinh và từng bài học cụ thể để giúp học sinh tiếp thu bài tốt nhất. 3.3. Biện pháp 3: Thành thạo quy trình giảng dạy từ vựng 3.3.1. Cách chọn từ để dạy Tiếng Anh có hàng trăm ngàn từ, vì thế việc dạy từ mới quả là một nhiệm vụ không hề dễ dàng đối với các giáo viên ngoại ngữ. Tuy nhiên cần nhớ là trung bình một người nói tiếng bản ngữ chỉ dùng khoảng năm nghìn từ trong giao tiếp hằng ngày. Hơn nữa, học sinh không cần phải dùng chính xác tất cả những từ đã học vì đôi lúc các em chỉ cần nhận ra và hiểu được thông điệp mà những từ đó chuyển tải. Vì thế, việc chọn từ để dạy dựa vào tần suất sử dụng và công dụng của từ theo nhu cầu của học sinh là rất quan trọng. Ở môi trường tiểu học hiện nay, khi nói đến ngữ liệu mới là chủ yếu nói đến ngữ pháp và từ vựng, từ vựng và ngữ pháp luôn có mối quan hệ khắng khít với nhau, luôn được dạy phối hợp để làm rõ nghĩa của nhau. Tuy nhiên dạy và giới thiệu từ vựng là vấn đề cụ thể cần xem xét theo mục đích của đề tài mà tôi chọn. Thông thường trong một bài học luôn xuất hiện những từ mới, xong không phải từ mới nào cũng cần đưa vào để dạy. Để chọn từ cần dạy, giáo viên cần xem xét những vấn đề: - Từ chủ động (active vocabulary) - Từ bị động (passive vocabulary) Chúng ta đều biết cách dạy hai loại từ này khác nhau. Từ chủ động có liên quan đến bốn kỹ năng (nghe – nói – đọc – viết). Đối với loại từ này giáo viên cần đầu tư thời gian để giới thiệu và cho học sinh tập nhiều hơn. Với từ bị động giáo viên chỉ cần dừng ở mức nhận biết, không cần đầu tư thời gian vào các hoạt động ứng dụng. Giáo viên cần biết lựa chọn và quyết định xem sẽ dạy từ nào như một từ chủ động và từ nào như một từ bị động. - Khi dạy từ mới cần làm rõ ba yếu tố cơ bản của ngôn ngữ là: + Form. + Meaning. + Use. Đối với từ chủ động ta chỉ cho học sinh biết chữ viết và định nghĩa như từ điển thì chưa đủ, để cho học sinh biết cách dùng chúng trong giao tiếp, giáo viên cần cho học sinh biết cách phát âm, không chỉ từ riêng lẻ, mà còn biết phát âm đúng những từ đó trong chuỗi lời nói, đặc biệt là biết nghĩa của từ. -Số lượng từ cần dạy trong bài tuỳ thuộc vào nội dung bài và trình độ của học sinh. Không bao giờ dạy tất cả các từ mới, vì sẽ không có đủ thời gian thực hiện các hoạt động khác. Tuy nhiên, trong một tiết học ở tiểu học theo tôi chỉ nên dạy tối đa là 6 từ. - Trong khi lựa chọn từ để dạy, tôi xem xét đến hai điều kiện sau: + Từ đó có cần thiết cho việc hiểu văn bản không? + Từ đó có khó so với trình độ học sinh không? - Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản và phù hợp với trình độ của học sinh, thì nó thuộc nhóm từ tích cực, do đó ta phải dạy cho học sinh nắm vững với những biện pháp cụ thể tôi sẽ nêu bên dưới. - Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản nhưng khó so với trình độ của học sinh, thì nó không thuộc nhóm từ tích cực, do đó ta nên giải thích rồi cho học sinh hiểu nghĩa từ đó ngay. - Nếu từ đó không cần thiết cho việc hiểu văn bản và cũng không khó lắm thì bạn nên yêu cầu học sinh đoán. 3.3.2. Các bước dạy từ Bước giới thiệu bài, giới thiệu chủ đề: đây là bước khá quan trọng trong việc dạy từ vựng. Bước này sẽ quyết định sự thành công của tiết học, nó sẽ gợi mở cho học sinh liên tưởng đến những từ sắp học qua chủ điểm vừa mới được giới thiệu. Điều quan trọng nhất trong giới thiệu từ mới là phải thực hiện theo trình tự: nghe, nói, đọc, viết. Đừng bao giờ bắt đầu từ hoạt động nào khác “nghe”. Hãy nhớ lại quá trình học tiếng mẹ đẻ của chúng ta, bao giờ cũng bắt đầu bằng nghe, bắt chước phát âm rồi mới tới những hoạt động khác. Hãy giúp cho học sinh của bạn có một thói quen học từ mới một cách tốt nhất: - Bước 1: “Nghe”, cho học sinh nghe từ mới bằng cách đọc mẫu hoặc dùng CD giọng bản ngữ là tốt nhất. - Bước 2: “Nói”, sau khi học sinh đã nghe được ba lần bạn mới yêu cầu học sinh nhắc lại. Khi cho học sinh nhắc lại, cần chú ý cho cả lớp nhắc lại trước, sau đó mới gọi cá nhân để kiểm tra và sửa lỗi ngay lập tức cho các em. - Bước 3: “Đọc”, viết từ đó lên bảng và cho học sinh nhìn vào đó để đọc. Cho học sinh đọc cả lớp, rồi đọc cá nhân và sửa lỗi cho học sinh. - Bước 4: “Viết”, sau khi học sinh đã đọc từ đó một cách chính xác rồi bạn mới yêu cầu học sinh viết từ đó vào vở. - Bước 5: Xác định xem học sinh có hiểu nghĩa của từ không. - Bước 6: Đánh trọng âm từ: phát âm lại từ và yêu cầu học sinh nhận diện âm tiết có trọng âm và đánh dấu. - Bước 7: Cho câu mẫu và yêu cầu học sinh xác định từ loại của từ mới học. 3.4. Biện pháp 4: Áp dụng tốt các kĩ thuật làm rõ nghĩa của từ. Trong Tiếng Anh mỗi từ thường có hai mặt: nghĩa của từ và cách sử dụng. Nghĩa của từ và cách chúng được dùng như thế nào là hai vấn đề khác nhau. Có nhiều trường hợp khi tra từ điển chúng ta có thể hiểu được nghĩa của từ, song không phải như vậy là đã biết cách sử dụng từ đó. Cách sử dụng của một từ phụ thuộc vào chức năng của từ trong câu, ngữ cảnh, thói quen của người sử dụng và các mối quan hệ của họ với môi trường văn hóa và xã hội. Sau đây là những thủ thuật làm rõ nghĩa từ: a. Sử dụng trực quan: Nội dung: Đồ vật thật trên lớp, tranh ảnh, hình vẽ phác hoạ, hình cắt dán từ tạp chí, cử chỉ điệu bộ Chúng có tác dụng mạnh mẽ đến hứng thú học tập của học sinh và giúp học sinh ghi nhớ nhanh hơn, lâu hơn. Ví dụ 1: Dùng vật thật để dạy về chủ đề đồ dùng học tập (School things), thức ăn đồ uống (Food and drink). Ví dụ 2: Dùng hình ảnh để dạy về chủ đề con vật Ví dụ 3: Dùng phác họa những hình ảnh đơn giản để dạy hình (shapes), số đếm (number) Ví dụ 4: Dùng bảng màu để dạy về màu sắc (colour) Ví dụ 5: Dùng lịch để dạy các thứ trong tuần (days in a week), các tháng trong năm (Months of the year) Ví dụ 6: Dùng hình ảnh từ các tạp chí để dạy mùa trong năm (seasons of a years) Ví dụ 7: Dùng các bộ phận của cơ thể để dạy về chủ đề cơ thể (Parts of body) Ví dụ 8: Bắt chước các động tác, cử chỉ, nét mặt: Happy – Sad Cold – Hot Stand – Sit b. Sử dụng ngôn ngữ đã học: - Định nghĩa, miêu tả: Học sinh sẽ dựa vào từ đã học và hiểu biết cơ bản để đoán ra nghĩa của từ qua định nghĩa của giáo viên. Thủ thuật này tạo cho học sinh sự tò mò và có nhu cầu tham gia vào quá trình học tập đồng thời rèn kỹ năng nghe cho học sinh. Ví dụ 1: Dạy từ “Elephant” + Giáo viên: It is very big and it has a long nose. What is it? + Học sinh: Is it an elephant? + Giáo viên: Yes! Ví dụ 2: Dạy từ “Snake” + Giáo viên: It’s small. It’s very long. What’s is it? + Học sinh: Is it a snake? + Giáo viên: Yes! - Sử dụng từ đồng nghĩa (synonyms) và từ trái nghĩa (antonyms) Ta sử dụng từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa để làm rõ nghĩa của một từ khi học sinh đã biết nghĩa của một từ trong cặp từ đồng nghĩa, trái nghĩa. a. Từ đồng nghĩa (synonyms) Start – begin; Big – large Fall – autumn; Eraser – rubber b. Từ trái nghĩa (antonyms) Young – old; New – old Small – big; Thick – thin - Sử dụng các quy tắc hình thành từ, tạo từ: Học sinh có thể đoán được nghĩa của từ nhờ từ gốc. Với quy tắc này giáo viên không những giúp học sinh nắm kiến thức mà còn mở rộng vốn từ cho học sinh Work – worker; Drive – driver; Speak – speaker Sea – seafood; Happy – unhappy; Like – dislike - Sử dụng các tình huống: Giáo viên thiết lập tình huống thật đơn giản, dễ hiểu bằng Tiếng Anh, học sinh đoán nghĩa qua tình huống, có thể bắt chước và sử dụng từ vào ngữ cảnh giao tiếp và rèn kĩ năng nghe. Ví dụ: This is my brother. He’s very lazy. He gets up late, and he doesn’t do anything. I say to him, “Don’t be lazy! Do your homework!” - Khuyến khích học sinh đoán nghĩa của từ trong ngữ cảnh: Ví dụ: - My school is small. There are ten classrooms. - Lan’s school is big. There are nineteen classrooms. - Đưa ra ví dụ giúp học sinh hiểu rõ nghĩa từ Ví dụ 1: Bananas, apples, oranges, grapes are fruit. Ví dụ 2: Chicken, fish, rice, ice-cream are food. - Sử dụng công cụ dịch (Translation): Giáo viên dùng những từ tương đương trong tiếng Việt để giảng nghĩa từ trong tiếng Anh. Giáo viên chỉ sử dụng thủ thuật này khi không còn cách nào khác, thủ thuật này thường được dùng để dạy từ trừu tượng, hoặc để giải quyết một số lượng từ nhiều nhưng thời gian không cho phép, Giáo viên gợi ý học sinh tự dịch từ đó. Cần lưu ý nếu giáo viên thường xuyên sử dụng thủ thuật này sẽ gây cho học sinh cảm giác đơn điệu, nhàm chán, không phát huy được tính tư duy, sáng tạo của các em. Ví dụ: delicious; wonderful; beautiful c. Phối hợp nhiều kỹ thuật trong dạy từ vựng: Trong quá trình giới thiệu từ mới giáo viên nên phối hợp các kỹ thuật với nhau. Chẳng hạn giáo viên thiết lập tình huống bằng Tiếng Anh, học sinh sẽ cố gắng nghe và đoán từ trong ngữ cảnh, kết hợp thể hiện bằng động tác, điệu bộ và yêu cầu học sinh đặ câu sử dụng từ đó. Ví dụ: Phối hợp giữa các kỹ thuật sau để dạy từ “skip” - Cho HS xem tranh - GV thực hiện động tác - HS bắt chước động tác - Đưa ra ví dụ - Dịch sang Tiếng Việt - Giáo viên: + Look: He can skip + Now, look at me: I can skip (GV thực hiện động tác “nhảy dây”) + She can skip (1 HS chạy) - Học sinh: skip - Giáo viên: What does it mean Vietnamese? - Học sinh: Nhảy dây (HS dịch sang tiếng việt) 4. Kết quả đạt được Sau thời gian thực hiện việc áp dụng đề tài, các tiết học trong lớp học của tôi trở nên sôi nổi hơn hẳn, học sinh tích cực tham gia phát biểu xây dựng bài hơn. Những học sinh trước không tự tin với khả năng Tiếng Anh của bản thân đã tỏ ra thích thú khi được tham gia các hoạt động theo nhóm, cặp hay tập thể. Điều này được thể hiện qua tỉ lệ thay đổi mức độ hứng thú của học sinh đối với môn học Tiếng Anh. Mức độ “Rất hứng thú” tăng 190% trong khi các mức độ còn lại “Hứng thú”, “Bình thường”, “Ít hứng thú” và “Không hứng thú” đều giảm. Không còn học sinh nào cảm thấy không hứng thú đối với giờ học Tiếng Anh. Đó là tín hiệu mừng đối với việc bước đầu áp dụng các biện pháp có trong đề tài nghiên cứu. Tỉ lệ học sinh ở mức độ “Hứng thú” có giảm nhưng đó là kết quả của việc học sinh đã chuyển từ việc cảm thấy hứng thú thành cảm thấy rất hứng thú trong giờ học. Học sinh đã không còn thờ ơ với môn học khi có thể thấy tỉ lệ học sinh có mức độ hứng thú “Bình thường” và “Ít hứng thú” đã giảm mạnh. Mặc dù khả năng tiếp thu của học sinh còn chưa đồng đều nhưng tinh thần cầu tiến, sự tích cực trong giờ học cũng như các năng lực, khả năng ngôn ngữ của các em tiến bộ rõ rệt. 100% học sinh đều hoàn thành môn học theo chuẩn đánh giá và xếp mới của thông tư 30, 27 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Đầu năm học Cuối năm học Rất hứng thú 42% 61% Hứng thú 47% 32% Bình thường 8% 6% Ít hứng thú 3% 1% Không hứng thú 0% 0% Bảng thể hiện mức độ hứng thú của học sinh trong giờ học Tiếng Anh ở thời điểm hoàn thiện nghiên cứu đề tài. Trong năm học 2022 - 2023, tôi đã được phân công thực hiện một chuyên đề cấp huyện với bài học Tiếng Anh lớp 3. Unit 5. My clothes - Lesson 1. Trong đó, tôi đã lồng ghép việc giảng dạy ứng dụng công nghệ thông tin với việc sử dụng các phương pháp giảng dạy từ vựng được nêu ở trên và cũng như các kĩ thuật bồi đắp từ vựng khác như Kim’s game hay Matching. Học sinh được thực hành chơi trò chơi Matching trực tiếp trên Ipad để ôn tập lại từ vựng chủ đề My Clothes. Tiết học đã được Phòng giáo dục, các giáo viên Tiếng Anh giảng dạy tại các nhà trường đánh giá rất cao về phương pháp, kĩ thuật dạy học và ghi nhận việc áp dụng các phương pháp giảng dạy từ vựng đã góp phần tăng hiệu quả giảng dạy, giúp khơi dậy được sự tự tin và hứng khởi của học sinh đối với môn Tiếng Anh. PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ Các phương pháp giảng dạy từ vựng tích cực là một trong những phương tiện dạy học đắc lực của người giáo viên. Không khí giờ học trở nên tươi vui, học sinh hào hứng với tiết học và người giáo viên là tôi cũng trở nên thêm yêu và nhiệt tình hơn trong giảng dạy. Trong khi khi áp dụng các phương pháp trên, giáo viên cần đa dạng hóa hình thức làm việc của học sinh như làm việc theo cặp, làm việc nhóm, tập thể hoặc cá nhân. Đối với hình thức làm việc theo cặp, không nhất thiết học sinh luôn làm việc với bạn cùng bàn, hai học sinh ngồi cách nhau cũng có thể tạo thành một cặp. Với hình thức làm việc theo nhóm, giáo viên có thể sử dụng các hình thức phân nhóm khác nhau như “Gọi số” theo ngày sinh, số thứ tự hay “Gọi tên” theo vần nhằm tạo các hoạt động kết nhóm phong phú, tạo hứng thú cho học sinh. Giáo viên cần đặc biệt chú ý đến việc ghép nhóm cho học sinh có lực học yếu và hoặc trung bình, luôn cổ vũ, động viên khi những học sinh đó hoàn thành bài. Trong khi thực hiện các hoạt động trên, việc quản lý lớp học cũng rất quan trọng. Các hoạt động trên nên được ước lượng thời gian cụ thể và thích hợp cho từng hoạt động và giáo viên nên chủ động dừng lại nếu học sinh cảm thấy không hứng thú hoặc trở nên xao lãng. Trẻ nhỏ luôn thích được khen. Vì vậy bất cứ khi nào trẻ thực hiện tốt, giáo viên nên chủ động tặng những lời khen cho trẻ. Trong trường hợp trẻ chưa thực hiện được, giáo viên cũng nên khuyến khích chứ không nên quát mắng. Trong khi áp dụng các phương pháp giảng dạy từ vựng tích cực, các chỉ dẫn và hiệu lệnh trong lớp học nên được sử dụng bằng Tiếng Anh càng nhiều càng tốt. Điều này sẽ giúp học sinh củng cố được các kĩ năng cần thiết mà học sinh đang được học. Để giúp học sinh hiểu rõ hơn những câu lệnh bằng Tiếng Anh, các động tác cử chỉ, ngôn ngữ cơ thể và thậm chí là một chút Tiếng Việt sẽ là cần thiết khi lần đầu học sinh tiếp xúc với các hiệu lệnh đó. Các hiệu lệnh đó nên ở dạng ngắn gọn, đơn giản dễ hiểu. Trên đây là một số ý kiến và kinh nghiệm của bản thân về việc áp dụng các phương pháp giảng dạy từ vựng Tiếng Anh hiệu quả cho học sinh ở bậc Tiểu học. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp và các cấp có thẩm quyền để đề tài có tính khả thi cao. Hà Nội, ngày 19 tháng 4 năm 2023 NGƯỜI VIẾT Nguyễn Mỹ Linh PHẦN IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. A.Scott, Wendy & H.Ytreberg, Lisbeth (2004) Teaching English to children. UK: Longman 2. Cameron, L. (2005) Teaching languages to young learners. Cambridge University Press. 3. Rixon, S. (1984) How to use games in language teaching. HongKong: Macmillan Publishers Ltd. 4. Adrian Doff Teach English. Cambridge University Press. 5. Carol Read 500 Activities for the Primary classroom. Macmillan 6. Slattery, Mary, J.Willis (2008) English for Primary Teacher. OUP. 7. Nguyễn Quốc Hùng (2012). Kĩ thuật dạy Tiếng Anh cho Giáo viên tiểu học. NXB Giáo dục 8. Các diễn đàn dành cho Giáo viên Tiếng Anh:
File đính kèm:
skkn_mot_so_bien_phap_giang_day_tu_vung_tieng_anh_hieu_qua_c.docx