SKKN Một số biện pháp dạy từ vựng tiếng Anh hiệu quả cho học sinh Lớp 3 tại Trường Tiểu học Vĩnh Quỳnh
Năm học 2023 - 2024 là năm học thứ hai chương trình giáo dục phổ thông 2018 được triển khai với học sinh lớp 3 trên cả nước. Môn tiếng Anh trở thành môn học bắt buộc, thay vì là môn học tự chọn như chương trình cũ. Nội dung của chương trình giáo dục phổ thông môn tiếng Anh thể hiện những định hướng cơ bản cụ thể là: “Ở cấp tiểu học (lớp 3-5), việc dạy học tiếng Anh giúp học sinh bước đầu hình thành và phát triển năng lực giao tiếp thông qua bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, chú trọng nhiều hơn đến hai kỹ năng nghe và nói. Ở cấp này giúp các em tiếp xúc và làm quen với tiếng anh, trong đó kỹ năng nghe và nói được trú trọng hơn vì sẽ tạo cho các em khả năng nhạy bén với tiếng anh, từ đó dần dần học cách viết và đọc dễ hơn.”
Với quan điểm lấy năng lực giao tiếp của học sinh làm trung tâm thì từ vựng được coi là một trong ba thành tố làm công cụ, phương tiện để hình thành và phát triển kĩ năng ngôn ngữ. Do đó, xây dựng vốn từ vựng cơ bản cho học sinh luôn là một yêu cầu thiết yếu đối với công tác dạy và học tiếng anh. Tuy nhiên trên thực tế, vốn từ vựng tiếng Anh của học sinh vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của bậc học. Do đó đòi hỏi người giáo viên phải tìm ra những phương pháp dạy học phù hợp. Làm thế nào để có thể dạy từ cho học sinh một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất? Làm thế nào để các em học sinh có được một vốn từ cần thiết và có thể sử dụng vốn từ vào giao tiếp một cách hiệu quả? Đó là những gì tôi luôn trăn trở và đã tìm hiểu thêm các kỷ thuật dạy học để giúp học sinh dễ hiểu, ứng dụng nhanh và tạo sự hấp dẫn của việc học ngôn ngữ mới. Tôi xin mạnh dạn đưa ra: “Một số biện pháp dạy từ vựng tiếng Anh hiệu quả cho học sinh lớp 3” mà bản thân tích lũy được trong quá trình học tập và giảng dạy để các bạn đồng nghiệp cùng tham khảo và góp ý để việc dạy và học từ được hiệu quả hơn.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số biện pháp dạy từ vựng tiếng Anh hiệu quả cho học sinh Lớp 3 tại Trường Tiểu học Vĩnh Quỳnh

ói ngôn ngữ. Học sinh được tiếp xúc với ngôn ngữ bằng cả âm thanh, hình ảnh, lẫn vận động khiến cho liên kết não bộ về từ ngữ trở nên mạnh hơn, giúp hấp thụ ngôn ngữ tốt nhất và não không bị căng thẳng ( stress), tỉnh táo sẽ có nhiều năng lượng hơn và nhớ kiến thức lâu hơn. * Cách dạy TPR Giáo viên thực hiện hành động và đọc to, chậm rãi cụm từ / từ cần giới thiệu, lặp lại 3 – 5 lần, lưu ý phát âm thật đúng Giáo viên cho cả lớp lặp lại, lưu ý phải kết hợp hành động cơ thể Giáo viên cho từng bạn lặp lại để sửa phát âm Lồng ghép hoạt động ( activity) vào để giúp tạo không khí vui vẻ, giúp các em khắc sâu kiến thức một cách tự nhiên và nhớ lâu hơn. 2. Flascard Bằng cách sử dụng Flashcard, tôi thiết kế trò chơi giúp học sinh có thể dễ dàng ghi nhớ nghĩa tiếng việt của từ vựng thông qua tiếp xúc với các hình ảnh minh họa. Qua flashcard giúp học sinh ghi nhớ về nội dung từ dễ dàng hơn. Giáo viên giơ thẻ từ lên, yêu cầu học sinh gọi từ tương ứng với mỗi hình ảnh minh họa. Cho các em phát triển câu qua các thẻ từ cũng rất tốt. 3. Realia (vật thật) - Dùng những dụng cụ trực quan thực tế có được. - Giáo viên dùng các đồ vật có sẵn trong lớp như: bàn, ghế, bút. hoặc chuẩn bị sẳn và mang đến lớp các đồ vật đơn giản, gắn với đời sống hàng ngày. - Giáo viên giơ vật đó lên hoặc chỉ vào vật đó và yêu cầu học sinh phát âm từ tiếng Anh tương ứng. Phương pháp này có thể mang lại hứng thú bất ngờ cho các em. Ví dụ: Unit 8: My school things ( English 3) Tôi sử dụng đồ dùng học tập của các em hàng ngày để giới thiệu cách nói, gọi tên chúng bằng tiếng Anh. Sau đó tôi cho các em tự viết tên các đồ dùng học tập vào mẫu giấy nhỏ và dán lên các đồ vật. 4. Visual (Tranh ảnh minh họa) Giáo viên chuẩn bị tranh ảnh màu sắc hấp dẫn có chứa nội dung kiến thức cần giới thiệu Giáo viên giơ tranh lên và yêu cầu học sinh nhận biết nội dung trong đó. Ví dụ: Unit 20: At the zoo – Lesson 1 ( English 3) Khi dạy các từ chỉ con vật giáo viên chuẩn bị các bức tranh về các con vật Giáo viên chỉ vào bức tranh về các con vật và yêu cầu học sinh nhận biết các con vật trong tranh? Ex: horse Ex: peacock 3.3.2. Giới thiệu từ theo phương pháp tạo tình huống 1. Real situation (Tình huống thực): Giáo viên có thể dùng tình huống hoặc ngữ cảnh có thực trong hoặc ngoài lơp học để giới thiệu nghĩa của từ. Ví dụ: Giáo viên chỉ vào 1 cái bút để trên bàn để giới thiệu nghĩa của giới từ chỉ vị trí “on”: EX: The pen is on the table. 2. Create a situation (Tạo tình huống) Khi điều kiện cho phép, tình huống được tạo ra sẽ làm thay đổi không khí lớp học, tạo sự gần gũi cởi mở giữa giáo viên và học sinh. Ví dụ: Giới thiệu động từ “think.” Giáo viên có thể đưa tình huống, khi gặp một bài tập khó, để tìm ra cách giải, các em phải “suy nghĩ”. Thủ thuật này giúp học sinh khắc sâu các từ trừu tượng trong ngữ cảnh dễ dàng. 3.3.3 Giới thiệu từ theo phương thức ngôn ngữ 1. Synonyon \ antonyon (đồng nghĩa \ trái nghĩa) Giáo viên dùng những từ đã học rồi để giảng từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa. Phương pháp này giúp phát huy tư duy của học sinh. Các em có thể hiểu được từ mới và nhớ lại từ đã học. Ex: beautiful = pretty Giáo viên hỏi: “What’s another word for beautiful?” Ex: big >< small Giáo viên hỏi: “What’s the opposite of big?” 2. Translation (dịch) Giáo viên dùng những từ tương đương trong tiếng Việt để giảng nghĩa từ trong tiếng Anh. Giáo viên chỉ sử dụng kỷ thuật này khi không còn cách nào khác, kỷ thuật này thường được dùng để dạy từ trừu tượng, hoặc để giải quyết một số lượng từ nhiều nhưng thời gian không cho phép, giáo viên gợi ý học sinh tự dịch từ đó. Ex: (to) remember Giáo viên hỏi: “How do you say remember in Vietnamese ?” Trong thực tế không có phương pháp hay kỷ thuật nào là tối ưu với tất cả các đối tượng học sinh hay các bài học mà bằng việc sử dụng linh hoạt các kỷ thuật phù hợp với từng đối tượng học sinh, phù hợp với nội dung bài học cũng như điều kiện thực tế của nhà trường. Qua việc sử dụng các kỷ thuật dạy học phù hợp, tôi nhận thấy đã khuyến khích học sinh học tập tích cực và hiệu quả hơn. Các kỷ thuật đó phát huy được tư duy của học sinh, tạo hứng thú học tập tích cực không còn tình trạng thụ động trong việc học từ mà các em được hoạt động, chủ động tiếp cận kiến thức mới và nhiều em đã nhớ được từ ngay ở trên. Biện pháp 4: Sử dụng hiệu quả phương pháp kiểm tra và củng cố từ mới. Bước giới thiệu từ rất quan trọng trong việc lĩnh hội kiến thức mới, song hoạt động kiểm tra và cũng cố từ cũng vô cũng quan trọng. Bởi vì nếu chỉ giới thiệu mà không khắc sâu thì từ vựng nhanh chóng được tiếp nhận nhưng cũng nhanh chóng bị lãng quên. Trong thực tế sẽ có một số em học sinh chậm hơn chưa nắm bắt hết cách phát âm, ngữ nghĩa của từ, cũng sẽ có những học sinh phát âm sai hoặc hiểu sai nghĩa của từ. Vậy hoạt động kiểm tra cũng cố một lần nữa khắc sâu lại kiến thức cho các em. Nhưng nếu việc kiểm tra và cũng cố không có những thủ thuật phù hợp sẽ không tạo được hứng thú học tập của học sinh thì bước này sẽ trở nên thừa, hoặc thiếu hiệu quả. Các kỹ thuật kiểm tra và củng cố sẽ khuyến khích học sinh học tập tích cực và hiệu quả hơn. Trong phần này tôi xin trình bày một số trò chơi mà mình đã áp dụng: 1. Magic box Ví dụ: Unit 8: My school things - Lesson 1 ( English 3) Vocabulary: book, pen, ruler, eraser Giáo viên chuẩn bị một hộp đựng các đồ dùng học tập mà học sinh vừa được học: bút, thước, sách, cục tẩy và một vài vật không có trong nội dung bài học. Giáo viên bỏ tất cả các đồ dùng vào một chiếc hộp. Học sinh được yêu cầu tìm một đồ dùng học tập trong hộp “ magic box”. Sau khi tìm được đồ dùng các em phải đọc to tên của đồ dùng đó bằng tiếng Anh. 2. Naming Unit 15: At the dining table – Lesson 1 – English 3 Vocabulary: chicken, bean, bread, rice, noodles, juice, water, milk, apple juice Giáo viên chọn 2 đội chơi, mỗi đội 3 – 5 học sinh. Giáo viên đặt tên cho mỗi đội. Ví dụ: Đội 1: được đặt là “food” Đội 2: được đặt là “ drink” Trong khoảng thời gian nhất định, các thành viên trong đội chạy nhanh lên bảng theo kiểu tiếp sức để viết đúng đồ ăn hoặc thức uống theo tên của đội mình, mỗi bạn viết một từ đúng. Đội nào viết được nhiều từ đúng và hoàn thiện nhanh nhất theo chủ đề của đội mình sẽ dành chiến thắng. 3. Slap the board Bước 1: Giáo viên viết hoặc dán tranh các từ vựng đã học lên trên bảng/ hoặc vẽ một số hình khác nhau lên bảng: hình tròn, hình tam giác, hình chữ nhật rồi ghi lại một số từ mới vừa học vào các hình trên bảng. Bước 2: Giáo viên chia cả lớp thành hai đội đặt tên cho mỗi đội và yêu cầu hai đội này xếp thành hai hàng dọc. Bước 3: Giáo viên đọc một từ. Học sinh ở hai đội sẽ chạy lên và đập tay vào đúng từ hoặc tranh ở trên bảng. Đội nào đúng được nhiều từ và nhanh hơn thì đội đó dành chiến thắng. 4. Matching Giáo viên viết từ vừa học lên bảng và đảo vị trí nghĩa của từ hoặc tranh. Giáo viên yêu cầu học sinh nối từ với nghĩa phù hợp hoặc tranh đúng. 1. bedroom a. 2. bathroom b. 3. livingroom c. 4. kitchen d. Việc sử dụng linh hoạt các thủ thuật trong hoạt động kiểm tra và cũng cố từ vựng, tôi nhận thấy đã phát huy được khả năng tư duy và sáng tạo của học sinh, các em đã có những phản ứng nhanh nhạy trong khi tham gia các hoạt động. Với phương châm “học mà chơi, chơi mà học” bởi các em rất tích cực tham gia vào các trò chơi và kiến thức được khắc sâu một cách tự nhiên không gây cảm giác “gò, ép”. 3.5. Biện pháp 5: Phối hợp với phụ huynh học sinh để hướng dẫn học sinh tự học ở nhà hiệu quả. Để phát huy tốt tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong học tập, thì chúng ta cần tổ chức quá trình dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động của người học, trong quá trình dạy và học, giáo viên chỉ là người truyền tải kiến thức đến học sinh, học sinh muốn lĩnh hội tốt những kiến thức đó, thì các em phải tự học bằng chính các hoạt động của mình. Hơn nữa thời gian học ở trường rất ít, đa phần thời gian còn lại các em sinh hoạt và học tập ở nhà, vậy việc phối hợp với phụ huynh học sinh để hướng dẫn các em học tập và củng cố kiến thức tại nhà cũng rất quan trọng. Làm được điều đó, thì chắc chắn hoạt động dạy và học sẽ ngày càng hoàn thiện hơn. Cho nên ngay từ đầu từ năm học, tôi thường hướng dẫn học sinh xây dựng hoạt động học tập ở nhà. 3.5.1. Chuẩn bị từ vựng trước khi đến lớp. Sau mỗi đơn vị bài học, tôi thường dành 1- 2 phút để hướng dẫn, nhắc nhở các con luyện viết từ ở nhà và yêu cầu các em dành ra 15 phút tìm hiểu bài học mới, chuẩn bị kiến thức cho bài học mới trước khi đến lớp. 3.5.2. Luyện phát âm và luyện viết từ, vận dụng vào giao tiếp mỗi ngày. Tôi yêu cầu học sinh dành mỗi ngày dành 20 – 30 phút để luyện phát âm và viết từ mỗi ngày. Mỗi học sinh có 1quyển vở luyện viết từ và câu ở nhà. Sau khi các em học sinh đã được luyện phát âm từ và đặt câu ở trên lớp. Cuối giờ, tôi thường yêu cầu các em học sinh về nhà luyện viết mỗi từ 3 – 5 dòng sau mỗi đơn vị bài học. Với những từ khó phát âm và khó nhớ, tôi hướng dẫn các em viết vào mẫu giấy nhỏ dán trước bàn học để ghi nhớ mỗi ngày. 3.5.3. Hướng dẫn học sinh liên tưởng và ghi chép Ngôn ngữ liên hệ thường dễ nhớ hơn là ngôn ngữ không có kết nối gì. Đó là lý do tại sao phương pháp tốt nhất là dạy từ vựng theo chủ điểm hoặc theo chuỗi các từ vựng có chung gốc. Lập ra các nhóm từ vựng theo chủ đề bằng cách vẽ sơ đồ tư duy: + Học sinh làm việc theo nhóm, tìm những thông tin về chủ điểm đã cho, sau đó so sánh với các nhóm. + Giáo viên tập hợp các thông tin phản hồi từ học sinh. + Thưởng cho nhóm liệt kê được đúng và nhiều từ thuộc chủ đề, và hoàn thành trước nhất. 3.5.4. Giữ mối liên hệ với phụ huynh học sinh, kiên nhẫn và khích lệ các em kịp thời. Tôi luôn giữ mối liên hệ với phụ huynh học sinh, thường xuyên trao đổi tình hình học tập của các con ở trên lớp, cũng như có những nhắc nhở kịp thời với những học sinh chưa tự giác trong học tập trên lớp và chưa hoàn thành nội dung học tập cô yêu cầu. Vậy, bằng những yêu cầu cụ thể sau mỗi đơn vị bài học giúp học sinh hiểu rõ được kiến thức cần khắc sâu ở mỗi bài học, học sinh đã dành thời gian để luyện phát âm, luyện viết từ ở nhà bên cạnh việc học ở trên lớp. Các em phát âm từ tốt hơn, vốn từ vựng cũng tăng thêm nên các em đã tự tin, chủ động hơn trong giao tiếp. Nhiều em đã tự giác chuẩn bị bài trước khi đến lớp nên các em cũng chủ động, tích cực phát biểu xây dựng. Tóm lại, trong thực tế dạy học, không có một thủ thuật nào là tối ưu hay khả dụng nhất. Tùy vào thời gian hoàn cảnh, đối tượng người học, kiến thức của người học, yêu cầu của giáo trình, mục đích của đơn vị bài học. Giáo viên có thể lựa chọn các thủ thuật một cách linh hoạt, sáng tạo để tạo dựng môi trường học tiếng phù hợp với điều kiện cho phép. 4. Kết quả Sau một thời gian áp dụng các biện pháp trên ở học sinh khối lớp 3 trường Tiểu học Vĩnh Quỳnh. Tôi nhận thấy trong quá trình giảng dạy, việc sử dụng linh hoạt các thủ thuật giảng dạy phù hợp đã mang lại những hiệu quả rõ nét. Các em rất hứng thú trong giờ học, hoạt động trao đổi cặp, nhóm sôi nổi. Nhiều em trước đây không biết phát âm từ, rụt rè khi được gọi lên thực hành nói hoặc phản xạ chậm khi thực hành giao tiếp thì giờ các em đã biết sử dụng từ và vận dụng vào giao tiếp tốt. Không còn học sinh nào cảm thấy không hứng thú đối với giờ học Tiếng Anh. Đó là tín hiệu mừng đối với việc bước đầu áp dụng các biện pháp có trong đề tài nghiên cứu. Mặc dù khả năng tiếp thu của học sinh còn chưa đồng đều nhưng sự tích cực trong giờ học cũng như các năng lực, khả năng ngôn ngữ của các em tiến bộ rõ rệt, 100% học sinh đều hoàn thành môn học theo chuẩn đánh giá và xếp mới của thông tư 30 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận Sau một thời gian sử dụng linh hoạt các thủ thuật giảng từ vựng ở khối lớp 3 tôi đã tổ chức đánh giá, so sánh kết quả học tập của học sinh đầu học kỳ 1 và giữa học kỳ 2 năm học 2023 -2024 thì rõ ràng và cao hơn hẳn. Kết quả học sinh giỏi, học sinh khá ngày càng tăng, giảm học sinh trung bình và không còn học sinh yếu kém là điều đáng mong đợi. Dưới đây là bảng thống kê kết quả học tập giữa học kỳ II của học sinh năm học 2023 – 2024: Bảng khảo sát số liệu giữa học kì II năm 2023 - 2024 Lớp học Tổng cộng Học sinh có thể sử dụng vốn từ vựng vào giao tiếp Học sinh biết sử dụng từ vào một số tình huống giao tiếp Học sinh còn lúng túng khi sử dụng từ vào giao tiếp Học sinh không thể sử dụng vốn từ vào giao tiếp Số lượng % Số lượng % Số lượng % Số lượng % 3A5 44 14 31,8 16 36,4 14 31,8 0 3A6 46 16 34,8 16 34,8 14 30,4 0 3A7 47 17 36,2 17 36,2 13 27,6 0 So sánh kết quả thi học sinh với theo dõi tiến độ học tập của học sinh trong lớp, tôi nhận thấy kinh nghiệm của mình là khả thi. Trong quá trình thực nghiệm, bản thân giáo viên và học sinh rất hứng thú với việc dạy và học. Học sinh học một cách tích cực, học sinh đã thuộc từ ngay tại lớp, vốn từ tăng lên rõ rệt. Các em học sinh yếu kém có thể sử dụng được từ vựng vào những câu đơn giản, những học sinh khá có thể sử dụng từ vựng trong những câu phức tạp hơn. Vì vậy, tôi mong muốn kinh nghiệm của mình được áp dụng rộng rãi nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Tiếng Anh ở trường tiểu học. Tôi thực hiện đề tài này chỉ là một phần trong tiết học, tuy nhiên nó đóng vai trò rất quan trọng cho việc thực hành mẫu câu, việc đối thoại có trôi chảy, lưu loát hay không đều phải phụ thuộc vào việc học thuộc lòng từ vựng và phát âm có chuẩn hay không. Để nâng cao chất lượng dạy học, người giáo viên phải có tâm với nghề, có trách nhiệm với công việc giảng dạy của mình hơn, quan tâm đến đối mới phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh của mình. Nhưng để thực hiện giảng dạy tốt một tiết từ vựng, không chỉ cần có sự đầu tư vào bài giảng, vào các bước lên lớp của giáo viên, mà còn phụ thuộc rất nhiều vào sự hợp tác của học sinh. Do vậy, bên cạnh việc sử dụng một cách linh hoạt các thủ thuật giới thiệu và kiểm tra, củng cố từ vựng cho học sinh, tôi cũng đưa ra một số yêu cầu đối với học sinh như: Chuẩn bị bài ở nhà, trong giờ học phải nghiêm túc, thường xuyên luyện viết để ghi nhớ và bổ sung vốn từ. 2. Khuyến Nghị Để việc học môn tiếng Anh của học sinh đạt được kết quả tốt, tôi xin đề nghị các cấp, các ban ngành và Ban Giám hiệu nhà trường tạo điều kiện hơn nữa về phương tiện, trang thiết bị và cơ sở vật chất để đáp ứng cho việc dạy và học của GV- HS như: + Mong được nhà trường quan tâm dành cho bộ môn Tiếng Anh phòng chức năng riêng có phương tiện nghe nhìn đảm bảo. + Ban giám hiệu quan tâm hơn nữa về việc trang bị đồ dùng trực quan như flashcard, tranh ảnh của từng đơn vị bài học, để tiết dạy có phong phú thêm đồ dung trực quan phục vụ cho tất cả các tiết dạy và khối lớp. Do thời gian có hạn nên đề tài này còn có những thiếu sót không tránh khỏi. Rất mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô, bạn bè đồng nghiệp để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn nhằm bổ sung vào phương pháp dạy học Tiếng Anh trên lớp đạt chất lượng cao hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Thanh Trì, ngày 24 tháng 4 năm 2024 Người viết Đỗ Thị Hòa
File đính kèm:
skkn_mot_so_bien_phap_day_tu_vung_tieng_anh_hieu_qua_cho_hoc.doc
2. Bìa SKKN.doc
3. MỤC LỤC.docx
4. PHỤ LỤC.docx
5. Đơn yêu cầu công nhận SKKN.docx
6. Bản mô tả.docx